Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế
Chúng
ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất
trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất
sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại.
Họ
đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do
Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên
khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi,
tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ
tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên ....
Chỉ
cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu cực
kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết
hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:
Rất
nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết
họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá
trình trình tiến hóa của nhân loại:
-
Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết
kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một
trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
-
Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch
Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát
lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn
cầu;
-
Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân
hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát
triển;
-
41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13
người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman
(2008) … là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các
lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng...
Nhiều
nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước
Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người :
-
Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm
ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã
cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây
dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905.
Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở
Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật
“làm hộ” chuyện ấy.
-
Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ năm 2007, với tài sản cá nhân lên tới
26,5 tỷ USD.
-
George Soros giàu thứ 28 ở Mỹ (7 tỷ USD) nổi tiếng thế giới hiện nay về ý tưởng
đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn.
-
Michael Bloomberg có tài sản riêng 5,1 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New
York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền
hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế, đang được mong đợi sẽ là ứng cử
viên Tổng thống Mỹ khóa tới...
Cộng
đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là
quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa
số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của
tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao
hơn mức trung bình của nước này.
Họ
nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền
nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ
Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.
Nước
Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn
nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát
triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm 2003 bằng 19.000 USD. Nhờ sức mạnh mọi
mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công
kích của cả trăm triệu người A Rập xung quanh ...
Nguyên nhân do đâu?
Vì
sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như
vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt
nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.
Để
tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên
tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại
tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ
gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống
phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000
năm qua.
Có
thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt
hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành
công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn
lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.
Muốn
vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) –
kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh
Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập
Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là
Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho
tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.
Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí
tuệ là thứ quý nhất của con người.
Kinh
Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi
không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của
chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc
ta thì không ai có thể cướp nổi.
Với
phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó
khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt
cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có
trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ
chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong
giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.
Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo
Nho, ta cần phân tích thêm.
Có
lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài
người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh
giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của
triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu)
về tài sản.” Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở
hữu của cá nhân trên một hình thức cao hơn”.
Rõ
ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự
bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu
nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc
làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.
Triết
gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự
giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn
người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên
đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô
thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài
sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.
Ngược
lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý
tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do
Thái, họ đều muốn giàu có.
Khái
niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường
cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này “có rất nhiều súc
vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để
có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn
chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất
nhiều súc vật.
Những
người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David ... đều được Cựu
Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn
cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa
phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.
Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái.
Họ
coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy,
không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống
nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn.
Hoàn
cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ
cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại –
về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi
trong tay không có tài sản cố định nào.
Người
ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là
bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ
ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành
ngân hàng?).
Tuy
vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai.
Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ
mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh
đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo
báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người
ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi
của người Do Thái bị nhiều nơi lên án.
Hệ
thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị Quốc Xã Hitler đập phá
đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có
râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.” Karl Marx từng viết: Tiền
bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự
xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái.
Người
Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối
với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của
mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết
kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ)
cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của
mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như
thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét