11/9/12

Sai lầm hay mắc phải của nhà đầu tư nghiệp dư


Để kiếm được tiền từ việc đầu tư chứng khoán, điều quan trọng nhất là bạn phải tránh được những sai lầm chết người. Các chuyên gia nghiên cứu đã tìm hiểu các hành vi tài chính của các nhà đầu tư, ví dụ như cách phân tích hay phản ứng của họ trước các thông tin tài chính, để tìm ra nguyên nhân dẫn đến các sai lầm này.
Không chỉ các nhà đầu tư cá nhân mà ngay cả các chuyên gia quản lý quỹ đầu tư cũng rất dễ mắc phải sai lầm khi đầu tư chứng khoán. Vì dù có giỏi đến đâu chăng nữa, họ cũng vẫn là những con người bằng xương bằng thịt. Hy vọng những nghiên cứu về các hành vi tài chính này sẽ giúp ích cho các nhà đầu tư.

Những sai lầm lớn nhất

Những sai lầm lớn nhất mà các nhà đầu tư thường mắc phải là:

- Quá tự tin vào khả năng dự đoán trước diễn biến của thị trường và hoạt động của các quỹ đầu tư.

- Quá trung thành với những thất bại.

- Chỉ nhìn thấy lãi.

- Quá thiển cận.

- Phớt lờ những chi phí theo thời gian.

Nếu biết nhìn nhận sâu sắc hơn về những sai lầm có thể mắc phải cũng như những ảnh hưởng của chúng đối với việc kinh doanh, bạn sẽ dễ dàng thành công hơn.

Quá tự tin

Hầu hết mọi người đều quá tự tin. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng con người thường đánh giá quá cao những khả năng của bản thân mình. Thậm chí, nhiều người còn cho rằng mình luôn cao hơn người khác một cái đầu. Nếu xét về giới tính thì đàn ông có xu hướng tự tin hơn phụ nữ rất nhiều.

Sự tự tin đúng mực mang lại nhiều lợi ích cho con người trên một số lĩnh vực của cuộc sống. Một người tự tin có xu hướng vui vẻ và làm việc chăm chỉ hơn những người khác. Họ cũng có khả năng đương đầu tốt hơn với những khó khăn trong cuộc sống.

Tuy nhiên, quá tự tin trong đầu tư lại hết sức nguy hiểm bởi vì thị trường chứng khoán là nơi mà mọi thứ có thể thay đổi ngay trong tíc tắc.

Quá tự tin thường dẫn tới việc kinh doanh vượt quá khả năng nguồn vốn. Việc mười triệu quỹ cổ phiếu được trao đổi, giao dịch trao tay mỗi ngày đã thể hiện xu hướng kinh doanh đó của các quỹ đầu tư. Ai cũng có quyền hy vọng rằng, bằng việc tích cực mua bán các quỹ tương hỗ, họ có thể trở thành một Peter Lynch thứ hai (người được mệnh danh là nhà quản lý tiền số một thế giới đã phát triển Quỹ Magellan Fund từ 20 triệu đôla năm 1977 lên đến mức 14 tỷ đôla năm 1990). Khoản thù lao hậu hĩnh cho môi giới có thể cho phép nhiều cá nhân hấp tấp, vội vàng nhảy từ quỹ này sang quỹ khác chỉ sau một cuộc điện thoại hoặc vài cú click chuột. Nhà đầu tư quá tự tin cũng có thể chơi trò đánh cược lớn bằng cách tập trung vào một quỹ ưa thích hoặc thậm chí dùng biện pháp cầm cố chứng khoán để lấy tiền đầu tư (margin trading).

Sự tự tin có xu hướng thay đổi theo các chu kỳ lên xuống của thị trường chứng khoán. Nói chung, những nhà đầu tư nhập cuộc thị trường chứng khóan vào cuối thập niên 90 – khi cổ phiếu được các nhà đầu tư ôm vào để đầu cơ và làm giá, được đánh giá là tự tin hơn rất nhiều so với các nhà đầu tư thời nay.

Sự thành công của nhiều nhà đầu tư trong thời điểm thị trường đầu cơ giá lên đó chính là kết quả của sự quá tự tin, chứ không phải có kỹ năng giỏi như nhiều người khi đó lầm tưởng. Lòng tự hào của một cá nhân đạt được những thành công liên tiếp sẽ có thể nhân sự tự tin lên nhiều lần. Và trong thực tế, đối với một nhà đầu tư thành công, ngoài khả năng tự tin thì yếu tố may mắn nhiều khi vẫn đóng vai trò quan trọng hơn kỹ năng.

Tuy nhiên, sau khi giá cả thị trường đạt tới tột đỉnh vào cuối 1999 đầu năm 2000, thì nhiều cổ phiếu rơi vào tình trạng giảm giá không thể kiểm soát được. Kể từ khi đó, sự tự tin và hoạt động thương mại của các nhà đầu tư giảm đi một cách đáng kể.

Quá trung thành với những thất bại

Tất cả mọi người đều không thích sự thất bại. Nhiều người sẽ không chấp nhận sự thất bại trong đầu tư chừng nào họ chưa thu lại được vốn đầu tư ban đầu khi mua được cổ phiếu với giá gốc (get-even). Thất bại thực sự làm tổn thương lòng tự trọng. Trên thực tế, có nhiều nhà đầu tư lỗ vốn hơn là hòa vốn, chứ chưa nói gì đến có lãi. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy nỗi đau của việc mất $10.000 bằng hai lần niềm hạnh phúc khi nhận được $10.000. Vì vậy, mọi người luôn cố gắng để tránh những cảm giác hối tiếc và đau đớn về mặt tâm l‎ý.

Tuy không thích sự thất bại, nhưng mọi người lại thường không phân tích nguyên nhân thất bại một cách hợp lý. Trớ trêu thay, những người thất bại, khi càng cố gắng giảm thiểu sự thất bại, họ lại càng làm gia tăng những nguy cơ rủi ro. Giống như những con bạc khát nước, các nhà đầu tư tiềm năng thường tăng khoản cá cược của họ lên khi đang may mắn để kéo dài vận may của mình. Một người bốc đồng có thể vội vàng nhân đôi số cổ phiếu của một quỹ không ổn định (có thể giảm giá tới 50%) để giảm mức chi phí trung bình khi mua cổ phiếu đó. Nhưng giá thấp có thể trở nên thấp hơn nữa.

Ngay kể cả các nhà đầu tư chuyên nghiệp cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi tâm lý sợ thất bại. Những nhà quản l‎ý quỹ có thể sẽ gặp rủi ro lớn hơn trong những thời kỳ quỹ phải chịu tỷ lệ chi phí cao hoặc cổ phiếu liên tục rớt giá.

Hội chứng “get-even” này có thể rất bất lợi cho các nhà đầu tư tài chính giỏi. Nếu việc đầu tư không thuận lợi, họ kiên định và hy vọng sẽ có bước đột phá. Họ có thể tránh bị rơi vào trạng thái hối tiếc vì sợ mình là một nhà đầu tư tồi nên đã vội vã bán quỹ đầu tư đi ngay khi nó xuống giá. Bởi vì, nếu bán thì họ đã kết thúc quá trình đầu tư bằng sự thất bại, còn nếu không bán, họ còn có hy vọng nó sẽ phục hồi và biết đâu nó sẽ phục hồi thật. Nhưng sự kiên nhẫn cũng phải có một giới hạn nhất định.

Giả sử bạn muốn nhân tiền của bạn lên gấp đôi trong 8 năm. Như vậy, trung bình mỗi năm bạn phải đạt lợi nhuận ở mức 9,05%. Tuy nhiên, nếu bị mắc kẹt vào những kế hoạch vô dụng, không mang lại lợi nhuận như mong muốn, bạn sẽ càng khó khăn hơn để đạt được mục tiêu ban đầu. Ví dụ, nếu giá trị đầu tư của bạn bị trượt giá 25% trong năm năm đầu, có nghĩa là bạn phải đạt được sự tăng trưởng lợi nhuận 38,67%/năm trong ba năm còn lại để đạt được mục tiêu đề ra là tăng gấp đôi số tiền của mình trong 8 năm. Một sự đầu tư mà không có lãi sẽ gây ra rất nhiều tổn thất nếu kéo dài. Với 0% doanh thu trong suốt năm năm đầu tiên thì bạn phải kiếm được 25,99% lợi nhuận trong những năm còn lại để gấp đôi số tiền trong 8 năm theo kế hoạch.

Về mặt tâm l‎ý của các nhà đầu tư, họ vẫn nuôi hy vọng vào một phép diệu kỳ nào đó. Bằng cách suy nghĩ tích cực, nhà đầu tư có thể đương đầu với những thất bại tốt hơn. Thay vì suy nghĩ “nếu bán tức là tôi sẽ thừa nhận sự thất bại nhục nhã to lớn”, hãy nghĩ đơn giản “Tôi sẽ chuyển tài sản của tôi sang một mục đích sử dụng hiệu quả hơn”. Câu nói này tương đối hữu ích nếu bạn đang cố gắng thuyết phục một ai đó chấp nhận sự thất bại một cách dễ dàng hơn.

Chỉ nhìn thấy lãi

Không có gì là khiếm nhã khi nói rằng nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng con người rất nhanh nhạy trong việc thu về những lợi ích cho mình. Niềm tự hào và sự hối tiếc luôn song hành trong suy nghĩ của họ.

Ví dụ, một nhà đầu tư nhìn thấy một cổ phiếu tiềm năng và anh ta muốn đưa nó vào danh mục vốn đầu tư của mình. Nhưng để đầu tư vào cổ phiếu này anh ta sẽ phải bán một cổ phiếu khác đi. Một nhà đầu tư “tìm kiếm sự tự hào” thông thường sẽ bán cổ phiếu có lãi hơn là cổ phiếu đang bị lỗ. Bằng cách bán một cổ phiếu ngay lập tức thu được lợi nhuận, dù nhỏ sẽ đem lại cho các nhà đầu tư đó cảm giác tự hào. Sự hối tiếc lúc này không được tính đến và gạt sang một bên, do vậy anh ta giữ cổ phiếu đang bị thua lỗ lại.

Khi cổ phiếu đang thua lỗ có dấu hiệu hồi phục, nhiều nhà đầu tư lại bán nó quá nhanh để chỉ thu về được một khoản lãi nhỏ hoặc thậm chí không có chút lãi nào. Bằng việc nhanh chóng lấy về vốn, các nhà đầu tư đã loại bỏ cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn, mà đáng lý ra sẽ là phần thưởng xứng đáng cho họ sau những thời kỳ “đau khổ” kéo dài.

Quá thiển cận

"Sự thiển cận xuất phát từ tâm lý sợ thất bại” là một thuật ngữ khác để chỉ những nhà đầu tư thiển cận và nó làm những người có tầm nhìn xa cảm thấy xót xa. Những nhà đầu tư thiển cận có xu hướng quá thận trọng khi sử dụng tài sản của họ. Điều này rất phổ biến với những người muốn có được những khoản tiết kiệm sau khi nghỉ hưu.

Một chân lý hiển nhiên là con đường dẫn tới những lợi nhuận dài hạn thường bị ngắt quãng bởi những mất mát ngắn hạn. Thị trường thay đổi nhanh chóng thường tạo ra sức ép tâm l‎ý lớn. Những người quá lo lắng thường có xu hướng bán đi những quỹ đầu tư chứng khoán rất có tiềm năng ngay khi nhìn thấy dấu hiệu đầu tiên của sự xuống giá.

Một người quá thiển cận có thể nhanh chóng bán ra khi giá trị trung bình của cổ phiếu trên thị trường giảm 5% hoặc 10% trong một tuần. Người này sợ sẽ mất tất cả! Thực tế thì giá cả thường sẽ tăng lên chỉ trong vòng vài ngày hoặc vài tuần.

Có một quy tắc xác định mức độ rủi ro mà một cá nhân có thể vấp phải như sau: “Lấy 110 trừ đi số tuổi của bạn”. Ví dụ, một người 40 tuổi thì con số 70 (=110-40) là số phần trăm rủi ro mà anh ta có thể gặp phải. Vì vậy, nếu đầu tư ở tầm nhìn ngắn hạn, nhà đầu tư này tốt nhất chỉ nên đầu tư một khoản tiền hết sức khiêm tốn (nếu có).

Phớt lờ những chi phí theo thời gian

Mọi người, đặc biệt là những người không hiểu biết về tài chính thường không nhận biết được sự khác nhau rất lớn giữa các con số, đặc biệt là những con số nhỏ. Bởi những con số nhỏ đó theo thời gian sẽ trở thành những con số khổng lồ, chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng doanh thu, ví dụ như là tỷ lệ chi phí quản lý cho khoản đầu tư của bạn chẳng hạn. Và như bạn đã biết, lợi nhuận của một quỹ bằng doanh thu của nó trừ đi chi phí, chi phí càng cao, lợi nhuận càng thấp. Thông thường đối với các quỹ đầu tư, tỷ lệ chi phí dành cho quản lý được dao động từ ít hơn 0,20% đến hơn 2%.

Giả sử một khoản đầu tư ban đầu là $10.000 cộng thêm 10% lợi nhuận. Một quỹ nội địa được quản l‎ý tốt với 1,25% tỷ lệ chi phí, sẽ lấy đi $895 (hay 5,55%) của $16.105 tổng tài sản trong tương lai sau 5 năm. Ngược lại, trong vòng 40 năm, tỷ lệ chi phí sẽ tiêu tốn mất $166.062 của quỹ, chiếm tới 36,69% của $452.593 tổng tài sản có được sau chừng ấy thời gian. Nói một cách khác, số tiền còn lại chỉ bằng 63,31% tổng doanh thu.

Đối với danh mục quỹ nội địa, chi phí có mức ảnh hưởng ít hơn rất nhiều. Với 0,20% tỷ lệ chi phí, một nhà đầu tư sau đó có thể mất đến $31.775 trong 40 năm, bằng 7,02% trị giá chỉ số index tương lai. Vì vậy, mức lợi nhuận của danh mục sẽ là 92,98%. Vì vậy khi nhìn vào bảng danh mục quỹ đầu tư và quỹ giao dịch thương mại, bạn cần quan tâm đến các quỹ có tỷ lệ chi phí thấp, đặc biệt khi có ý định đầu tư dài hạn.


Dành cho nhà đầu tư nhỏ lẻ


Bạn có biết cần phải chú ý đến những yếu tố nào trong thế giới đầu tư không? Nếu bạn cảm thấy còn đôi chút băn khoăn hay lúng túng, các chuyên gia đầu tư tài chính của CNN/Money sẽ giúp bạn.

Bạn có đôi chút kiến thức về tài chính, nhưng liệu bạn đã đủ “dũng khí” để tham gia thị trường đầu tư? Bạn biết việc đầu tư sẽ có thể đem lại lợi nhuận không nhỏ, nhưng liệu bạn có chắc chắn rằng mình sẽ không gặp chút “vận đen” nào? Những lời khuyên mà bạn nhận được đã đủ đảm bảo để bạn trở thành nhà đầu tư thành công? Bạn có biết cần phải chú ý đến những yếu tố nào trong thế giới đầu tư không?Nếu bạn cảm thấy còn đôi chút băn khoăn hay lúng túng, các chuyên gia đầu tư tài chính của CNN/Money sẽ giúp bạn.

Phần 1: Sáng suốt và cẩn trọng

1. Đôi khi nhà đầu tư nghiệp dư lại có lợi thế hơn nhà đầu tư chuyên nghiệp. Nhà đầu tư chuyên nghiệp luôn bị ám ảnh bởi những dự đoán rằng liệu họ có đánh bại thị trường hay không. Họ có thể cảm thấy căng thẳng khi nắm giữ hay mua vào tại thời điểm cổ phiếu đang tràn ngập thị trường. Còn các nhà đầu tư nghiệp dư sẽ không xem xét cẩn thận và nghiên cứu kỹ lưỡng đến như vậy trong các hoạt động đầu tư của mình. Khi thị trường bắt đầu náo động, khó kiểm soát, họ chỉ cần ngồi yên tại chỗ, bình tĩnh tập trung vào những mục tiêu dài hạn.

2. Đầu tư tiền bạc hợp lý là hành động quan trọng hơn rất nhiều so với việc cố gắng tìm kiếm những Microsoft tiếp theo. Về dài hạn, lợi nhuận mà bạn có được từ việc đầu tư cổ phiếu và trái phiếu sẽ có xu hướng tương thích với mức biến động trung bình trên thị trường. Vì vậy, bạn nên phân bổ tài chính hợp lý để quyết định đầu tư bao nhiêu phần vào cổ phiếu và bao nhiêu vào trái phiếu.

3. Bạn có thể chia tay với hoạt động đầu tư với khoản tiền lớn và tâm trạng thoải mái mà không cần biết đến việc học thế nào để kiếm được cổ phiếu sinh lợi. Hãy đặt 60% tổng số tiền của bạn vào thị trường cổ phiếu và 40% còn lại vào thị trường trái phiếu. Chỉ trong vòng 10 năm hay lâu hơn một chút, bạn sẽ đạt kết quả tốt hơn phần lớn các nhà đầu tư khác trên thị trường, cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư.

4. Tất cả các hoạt động đầu tư đều liên quan đến rủi ro.

5. Đa dạng hoá đầu tư là một loại thuốc trợ tim tuyệt vời đối với các nhà đầu tư. Việc trải rộng dòng vốn của mình ra các loại cổ phiếu và trái phiếu khác nhau là quyết định khôn ngoan. Việc này sẽ giảm thiểu tỷ lệ rủi ro và tăng cơ hội thu thêm lợi nhuận.

6. Các nhà đầu tư lão luyện đều có chung một kết luận là về dài hạn, cổ phiếu sẽ sinh lợi nhiều hơn trái phiếu và trái phiếu hiệu quả hơn tiền mặt. Tuy nhiên, bạn cần cảnh giác, không phải lúc nào nhận định này cũng đúng.

7. Hãy chú ý tới sự thoái trào: Các vận động viên thể thao gọi đó là sự xuống phong độ. Đây là thời kỳ mà các vận động viên rơi vào khủng hoàng sau thời kỳ đỉnh cao. Trên thị trường chứng khoán, những điều tương tự thường xảy ra với các công ty tăng trưởng quá nóng. Các nhà đầu tư thường có xu hương vui mừng lao vào những công ty tăng trưởng nhanh, tuy nhiên không ai có thể đi theo cuộc chơi này mãi mãi, bởi vì thậm chí những công ty tăng trưởng nhanh nhất cũng có thể rơi vào suy thoái bất cứ lúc nào. Bạn hãy dành nhiều thời gian hơn để suy nghĩ và phân tích về những hiện tượng này, từ đó quyết định xem lúc nào nên lao vào và lúc nào không nên.

8. Đừng dùng tiền của mình đầu tư vào thị trường với những mục tiêu đại loại như cố gắng mua được những cổ phiếu với mức giá cao nhất hay thấp nhất. Các nhà nghiên cứu hiện vẫn còn đang tìm kiếm một cách thức để xác định chính xác lúc nào thị trường ở mức trần và lúc nào ở mức sàn, nhưng điều này có thể không bao giờ biết được.

9. Tỷ lệ trung bình đồng vốn đầu tư: Đầu tư với lượng tiền nhất định hàng tháng hay hàng quý trong năm là cách tốt nhất và duy nhất để có thể giữ bạn trên con đường mà mình đã lựa chọn.

10. Tái cân bằng. Bạn nên dành 60% tiền bạc của mình đầu tư vào cổ phiếu và 40% vào trái phiếu. Nếu cổ phiếu gặp khủng hoảng và chiếm tới 75% tổng vốn đầu tư của bạn, bạn nên bán bớt chúng đi để tái cân bằng ở mức 60-40. Với cách này, bạn sẽ có thể loại bỏ những cổ phiếu đang trở nên đắt tiền hơn và mua vào loại rẻ tiền hơn. Đó là cách mua rẻ bán đắt.

11. Lợi nhuận cao bao giờ cũng gắn liền với rủi ro lớn, tuy nhiên không phải bất cứ rủi ro nào cũng tất yếu dẫn tới lợi nhuận cao. Trước sức hấp dẫn của các khoản lợi nhuận khổng lồ, một nhà đầu tư thông minh sẽ không dấn thân một cách mạo hiểm vào những vụ đầu tư nếu anh ta không nhìn thấy sự an toàn tối đa. Trong quãng thời gian “chú bò” thị trường chứng khoán được nuôi lớn thái quá, bạn có thể mất tiền từ niềm đam mê cổ phiếu của mình, hay đơn giản là công ty mà bạn cho rằng sẽ thành công có thể nổ tung bất cứ lúc nào.

12. Bạn có thể không biết mình phải đối mặt với những rủi ro nào, cho đến khi bạn hứng chịu những mất mát thực sự. Cũng giống như các trường hợp ngộ độc thực phẩm, rủi ro là một cái gì đó rất khó để hiểu về mặt lý thuyết. Một sự thật khó nghe đó là Nasdaq đã “chôn vùi” không biết bao nhiêu nhà đầu tư công nghệ, những người nghĩ rằng mình không thể bị tổn thương.

13. Quy tắc 72. Một mánh khóe để tính toán xem bạn sẽ cần bao nhiêu thời gian để nhân đôi số tiền của mình. Ví dụ bạn phải mất bao nhiêu năm để khoản tiền 1000 đồng chuyển thành 2000 đồng ở mức lợi nhuận 8%? Hãy lấy 72 chia cho 8, bạn có 9 năm. Từ ví dụ này, bạn có thể tính toán cho mình khoảng thời gian sinh lợi nhuận.

14. Tái đầu tư. Nếu bạn kiếm được 6% lợi nhuận trên 1000 đồng trái phiếu và để dành hết số tiền lời này, thì sau 20 năm, bạn sẽ có 1200 đồng. Nhưng nếu bạn tái đầu tư hết số lợi nhuận thu được, bạn sẽ có 2662 đồng cũng sau 20 năm. Đó là sức mạnh của tái đầu tư - lợi nhuận mẹ sẽ sinh ra lợi nhuận con.

15. Bắt đầu sớm. Đối với hoạt động đầu tư, bạn càng dành thời gian cho nó nhiều bao nhiêu, bạn sẽ càng thu được nhiều lợi nhuận bấy nhiêu.

16. Dành dụm nhiều hơn: Một cách khác để tăng thêm lợi nhuận đó là dành dụm thêm một khoản tiền nhỏ nhất định mỗi tháng để đầu tư. Cùng với thời gian, những đồng tiền đó sẽ sinh sôi thành hàng nghìn đồng khác.

17. Khi bạn đặt kế hoạch cho những mục tiêu dài hạn, bạn hãy đảm bảo rằng toàn bộ số vốn đầu tư của bạn sẽ sinh lời 5% đến 6%/năm.

18. Khi bạn mua một cổ phiếu, bạn nghĩ nó sẽ đem lại lợi nhuận cho bạn, nhưng bạn cần nhớ rằng bạn đã mua những cổ phiếu này từ một người nào đó cũng đang cảm thấy mãn nguyện khi bán được chúng.

19. Đừng dựa vào các cơ quan quản lý. Các nhà đầu tư cần có cái nhìn tỉnh táo và thực tế về những gì chính phủ có thể làm và những gì không thể. Các cơ quan quản lý chắc chắn sẽ đẩy mạnh việc tìm ra các gian lận và buộc các công ty phải phơi bày thông tin nhiều hơn và minh bạch hơn. Nhưng các nhà đầu tư thường sử dụng một cách không hiệu quả những thông tin mà họ có được từ sự công khai đó. Bao nhiêu nhà đầu tư đã từng thực sự đọc và phân tích những tường trình trong bản cáo bạch IPO thường niên trước khi ra quyết định đầu tư? Không có quy định nào buộc các nhà đầu tư phải quyết định thận trọng hay giữ thị trường khỏi suy thoái.

20. Đừng để những mối quan tâm về thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của bạn.

21. Bạn muốn tăng lợi nhuận kiếm được? Nếu bạn xem TV vào buổi trưa, tốt hơn hết bạn đừng nên xem những thông tin về tài chính kinh doanh. Bạn thực sự không cần biết những gì xảy ra với cổ phiếu của các công ty, thay vào đó hãy xem chương trình mà bạn yêu thích. Đơn giản là vì lúc này bạn không cần những cái nhìn và phân tích bên trong nhằm tránh cho bạn những cám dỗ lôi kéo mình vào những vụ đầu tư mới với rủi ro cao hơn nhiều.

22. Ở đây có sự khác biệt giữa đầu tư và đầu cơ: các nhà đầu tư thường thích mua cổ phiếu như một thương vụ kinh doanh và sẽ nắm giữ trong thời gian dài, còn các nhà đầu cơ nhìn cổ phiếu như những tờ giấy và họ mua chúng với hy vọng một ai đó sẽ trả giá cao hơn.

23. Tình hình tăng trưởng của công ty sẽ điều khiển giá cổ phiếu. Có thể có sự khác biệt khá lớn về giá cổ phiếu từ năm này qua năm khác, nhưng về lâu dài, giá cổ phiếu sẽ biến động dựa trên doanh thu và lợi nhuận của công ty - nếu lợi nhuận ngày một thu hẹp thì giá cổ phiếu sẽ giảm, còn nếu lợi nhuận càng lúc càng lớn hơn thì đương nhiên giá cổ phiếu cũng sẽ tăng cao.

24. Trước khi quyết định mua một cổ phiếu nào đó, bạn hãy chuẩn bị “bài diễn văn tóm tắt” để thuyết phục chính bản thân bạn, cô vợ đa nghi, con chó của bạn, hay bất kỳ ai và giải thích tại sao bạn muốn mua cổ phiếu. Đó có phải là một cổ phiếu tăng trưởng nhanh, ổn định và sẽ tạo nên một kỳ tích về doanh thu? Liệu chiến lược đầu tư bạn đưa ra có hợp lý? Liệu bản cân đối tài chính của công ty đó đã đủ lành mạnh? Liệu công ty này có thắng thế trước các đối thủ cạnh tranh? Đơn giản khi bạn nói ra những điều này, bạn sẽ phải tập trung hơn vào những gì bạn nghĩ và những gì bạn đã nghiên cứu, phân tích. Cuối cùng, việc này có thể giúp bạn tránh những rủi ro thua lỗ.

25. Khi bạn đã dành vài phút để suy nghĩ, bạn hãy dành tiếp mấy phút nữa để tự hỏi tại sao bạn không nên mua cổ phiếu đó. Liệu công ty có chìm sâu trong nợ nần? Liệu vị CEO có đáng tin cậy không hay sẽ “lẩn như trạch” khi có rắc rối? Liệu giá cổ phiếu có quá đắt để mua? Việc nắm bắt những thông tin đó không những sẽ giúp bạn hiểu hơn về công ty, mà còn giúp bạn tính toán được thời điểm nên bán cổ phiếu đi.

26. Những công ty lớn không nhất thiết sẽ tạo ra những cổ phiếu đáng để mua. Đơn giản là vì nếu bạn chỉ đầu tư vào những công ty đang dẫn đầu thị trường, thì thu nhập của bạn có thể sẽ rất cao, tuy nhiên, một khi những công ty lớn rơi vào khủng hoảng, thì thu nhập của bạn có thể bị khủng hoảng nặng nề hơn nhiều.

27. Cổ phiếu 20 đồng có thể quá đắt - Cổ phiếu 100 đồng lại có thể quá rẻ. Bạn hãy tính toán, nhưng không chỉ là giá mỗi cổ phiếu, mà là lượng tiền bạn thu được từ mỗi đồng tiền trong doanh thu, lợi nhuận, tài sản và tiền mặt lưu thông của công ty mà bạn đầu tư vào. Điều này bạn có thể biết được từ các tỷ lệ đánh giá cổ phiếu sau đây.

28-31. Bốn cách để đánh giá một cổ phiếu

- Tỷ lệ giá/lợi nhuận (P/E): Cho đến nay, đây vẫn là tỷ lệ đánh giá cổ phiếu được sử dụng phố biến nhất, bởi vì nó cho biết bạn sẵn sàng trả bao nhiêu cho mỗi đồng lợi nhuận của công ty.

- Tỷ lệ giá/doanh thu (P/S): Chỉ số này có thể được sử dụng để nhận ra những công ty có mạng lưới kinh doanh ổn định, nhưng lợi nhuận có thể giảm sút sau quá trình tăng trưởng quá nóng.

- Tỷ lệ giá/lưu lượng tiền mặt (P/C). Con số doanh thu và lợi nhuận mà công ty báo cáo là sản phẩm của những quy tắc tính toán phức tạp, do đó số liệu có thể bị sai lệch. Lưu lượng tiền mặt từ các hoạt động kinh doanh có thể vẽ nên bức tranh chân thực hơn.

- Tỷ lệ giá/giá trị sổ sách (P/B): Tỷ lệ này được dùng để đánh giá toàn bộ máy móc, thiết bị và các tài sản khác, thường được sử dụng khi nhà đầu tư tìm kiếm các mục tiêu tiếp quản.

32. Sự khác biệt giữa chỉ số Forward P/E và Trailing P/E. Chỉ số Trailing P/E được dựa trên doanh thu trong năm hiện tại hay bốn quý gần nhất của công ty. Còn chỉ số Forward P/E là ước đoán dựa trên doanh thu mong đợi của công ty trong năm tiếp theo hay bốn quý sắp tới.

33. Sự khác biệt giữa cổ phiếu tăng trưởng và cổ phiếu giá trị. Một cổ phiếu tăng trưởng sẽ hứa hẹn một lợi nhuận lớn hơn trong tương lai, trong khi đó một cổ phiếu giá trị có tính thanh khoản cao, bạn có thể bán bất cứ lúc nào với mức giá cao hơn hay thấp hơn giá trị thực của chúng. Cổ phiếu tăng trưởng thường là cổ phiếu của các hãng dầu mỏ còn cổ phiếu giá trị là cổ phiếu của các hãng tiêu dùng luôn có doanh thu và lợi nhuận ổn định, mức độ tin cậy cao. Về dài hạn, cổ phiếu giá trị có mức tăng trưởng chậm hơn, một phần vì chúng có chiều hướng được mua để đầu cơ trên thị trường.

34. Cách tốt nhất để tìm kiếm cổ phiếu tăng trưởng giá rẻ. Để trả lời câu hỏi liệu một cổ phiếu tăng trưởng hiện có được rao bán ở mức giá hợp lý hay không, bạn hãy xem tỷ lệ PEG. Để tính toán tỷ lệ PEG của một công ty, bạn hãy chia tỷ lệ P/E với tỷ lệ tăng trưởng doanh thu dự đoán. Nếu tỷ lệ PEG thấp hơn 1,2 nghĩa là cổ phiếu đó là cơ hội tốt để đầu tư.

35. Bạn có thể bắt đầu xây dựng danh mục đầu tư các cổ phiếu dài hạn chỉ với 9 công ty. Khi xây dựng một danh mục đầu tư cơ bản, bạn hãy bắt đầu với những công ty lớn có mặt trong 5 lĩnh vực công nghiệp tăng trưởng năng động nhanh nhất. Ví dụ, bạn có thể lựa chọn A trong lĩnh vực công nghệ, B trong lĩnh vực dược phẩm, C trong lĩnh vực dịch vụ tài chính…

36. Đừng đặt quá 10% vốn đầu tư bạn có vào cổ phiếu của chính công ty bạn. Nếu bạn buộc phải nắm giữ một số lượng lớn hơn 10% - có thể do những quy định của công ty - bạn hãy cố phân tán rủi ro bằng cách đầu tư vào những lĩnh vực khác ổn định hơn lĩnh vực của bạn. Ví dụ, nếu bạn làm việc cho một công ty công nghệ cao, hãy kiếm cho mình những cổ phiếu của các công ty công nghiệp trả cổ tức cố định.

37. Đừng đặt quá 10% vốn đầu tư cổ phiếu của bạn vào một công ty. Những bài học lớn như Enron và WorldCom là minh chứng rõ nét cho nhận định rằng: một danh mục đầu tư quá tập trung sẽ giá tăng sự mất ổn định và tăng rủi ro thua lỗ.

38. Sự phân tán cổ phiếu cũng không làm bạn trở nên giàu có. Việc chia tách cổ phiếu để đầu tư là cần thiết, nhưng việc phân tán quá rộng lại rất có thể phản tác dụng. Khi bạn chia tách cổ phiếu để đầu tư, bạn cũng sẽ không giàu hơn hay nghèo hơn chính bạn trước đây. Ví dụ, sau khi phân tán cổ phiếu, bạn kết thúc năm tài chính với số lượng cổ phiếu nhiều gấp đôi, nhưng chúng được giao dịch với giá chỉ bằng một nửa. Tuy nhiên, một vài nhà đầu tư nhìn nhận việc phân tán là dấu hiệu của việc đa dạng hoá đầu tư tới nhiều công ty hấp dẫn hơn. Nhưng rồi, các nghiên cứu cho thấy rằng cổ phiếu được phân tán thường ít đem lại lợi nhuận hơn so với việc không phân tán, nếu thời gian đầu tư của bạn chỉ từ một đến hai năm.

39.
 Tìm kiếm thông tin để tìm hiểu về công ty bằng cách đọc các báo cáo tài chính hàng quý hay hàng năm. Bạn cũng có thể tìm kiếm các thông tin về các công ty trên Internet hay trang web của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán.

40. Theo sát chỉ số thị trường chứng khoán. Đây là chiến lược để mua lại những cổ phiếu có giá trị sinh lời cao nhất vào mỗi tháng 1 đầu năm. Bạn giữ chúng trong một năm, sau đó bán đi những cổ phiếu sa sút nhất trong bản danh sách và mua một cổ phiếu khác thay thế.

41. IPO sẽ không như mong đợi. Trong thời kỳ hoàng kim của các công ty Internet, mọi người đều muốn lao vào các đợt phát hành chứng khoán ra công chúng (IPO). Tuy nhiên, IPO không đem lại kết quả về lâu dài. Những cổ phiếu này thường đem lại phần lớn lợi nhuận trong những những ngày giao dịch đầu tiên, sau đó, các đợt phát hành mới sẽ chỉ “ì ạch” trên thị trường trong những năm tiếp theo.

42-45. Bốn lý do đúng đắn để bán cổ phiếu. Bạn đừng bán cổ phiếu chỉ vì chúng sụt giá hay vì thị trường có dấu hiệu đi xuống. Những lý do để bán cổ phiếu đi là:

- Thứ nhất, một vài yếu tố quan trọng về hoạt động kinh doanh hay triển vọng lợi nhuận của công ty đã thay đổi so với thời điểm bạn mua chúng.
- Thứ hai, bạn nhận ra rằng những nhận định, đánh giá trước đây của bạn về hoạt động kinh doanh và triển vọng lợi nhuận của công ty là sai lầm.
- Thứ ba, công ty bạn đầu tư đang cho thấy họ hoạt động quá tốt so với mong đợi – giá cổ phiếu tăng trên mức mà bạn tin rằng phản ánh giá trị thực của công ty.
- Thứ tư, cổ phiếu nào đó hiện đang chiếm một phần quá lớn trong danh mục đầu tư của bạn khiến rủi ro tăng cao.

46. Bạn giao dịch càng nhiều, lợi nhuận bạn thu được dường như sẽ càng ít đi. Bạn mua và bán càng nhiều, danh mục đầu tư của bạn sẽ phải chịu chi phí giao dịch càng cao hơn. Thử nghĩ xem liệu bạn có đánh bại thị trường bằng những ý tưởng thông minh không? Một nghiên cứu cho thấy các nhà quản lý quỹ thường không tăng lợi nhuận bằng các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Nếu các giao dịch thường xuyên gây thiệt hại cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp, thì nó cũng có thể ảnh hưởng xấu đến bạn.

47. Đầu tư quá giới hạn cho phép. Bạn vay tiền từ những nhà môi giới và trả lãi suất để mua thêm cổ phiếu. Điều này dường như sẽ mang lại lợi nhuận nhiều hơn, nhưng đồng thời thua lỗ cũng có thể lớn hơn. Nếu cổ phiếu bạn nắm giữ xuống thấp dưới mức nào đó, nhà môi giới của bạn sẽ yêu cầu bạn hoàn trả lại một phần hay toàn bộ khoản nợ ngay lập tức. Do đó, mua ngoài giới hạn của bản thân là một rủi ro mà các nhà đầu tư nghiệp dư nên tránh xa.

48. Thế nào là đầu tư short-selling?. Nhà đầu tư “short-seller” sẽ mượn cổ phiếu từ một nhà môi giới để bán với hy vọng cổ phiếu này sẽ xuống giá và anh ta có thể mua lại với giá thấp hơn. Tuy nhiên, chi phí cao, tiềm năng thua lỗ lớn và thậm chí giá cổ phiếu tăng sau một thời kỳ dài đóng băng sẽ khiến mong muốn thu lại cổ phiếu của những nhà đầu tư “short-seller” trở nên viển vông. Đây là một điều mà bạn nên tránh.

49. Sự khác biệt giữa lệnh thị trường và lệnh giới hạn. Khi bạn ra một lệnh trên thị trường chứng khoán với nhà môi giới của bạn, bạn đang yêu cầu bán hay mua cổ phiếu ở một mức giá khớp lệnh. Còn lệnh giới hạn hướng nhà môi giới mua và bán cổ phiếu ở mức giá cụ thể nào đó, thì mức giá này được sử dụng như một biện pháp hữu hiệu để bảo vệ bạn trong một thị trường thường xuyên biến động. Nếu cổ phiếu không đạt tới giá đó, sẽ không có giao dịch nào được thực hiện.

PHẦN 4: TRÁI PHIẾU

50. Những quy tắc cơ bản của đầu tư trái phiếu. Giá trái phiếu sẽ giảm khi tỷ lệ lãi suất tăng và ngược lại. Tại sao? Nếu bạn sở hữu trái phiếu có mức trả lãi 6% và tỷ lệ lãi suất tăng, lúc này, trái phiếu sẽ có mức trả lãi 7% , do vậy trái phiếu 6% của bạn sẽ mất giá.

51. Nếu bạn đầu tư trái phiếu và giữ chúng cho đến đúng kỳ hạn thanh toán, bạn sẽ không bao giờ mất tiền. Trái phiếu chính phủ, ngân phiếu không bao giờ vỡ nợ. Trái phiếu đô thị và trái phiếu công ty cũng hiếm khi vỡ nợ (tỷ lệ vỡ nợ dài hạn chỉ khoảng trên dưới 1% đến 2%).

52. Bán cổ phiếu trước khi đến hạn thanh toán có thể là một sai lầm. Cổ phiếu không như trái phiếu – chúng không được giao dịch mọi ngày và cũng sẽ không có nhiều người sẵn sàng mua trái phiếu khi bạn muốn bán chúng đi. Vì vậy, nếu bạn buộc phải bán trái phiếu, bạn có thể phải chấp nhận chịu thiệt một số tiền nhất định.

53. Làm thế nào để vừa có tiền vừa không thua lỗ? Trong danh mục đầu tư trái phiếu, bạn nên nắm giữ nhiều cổ phiếu với các kỳ hạn thanh toán khác nhau để bạn có thể có tiền vào bất cứ năm nào. Điều này cho phép bạn tận dụng lợi ích từ tỷ lệ lãi suất cao để mua trái phiếu khác, đồng thời giảm thiểu rủi ro.

54. Bạn có thể mất tiền nếu đầu tư vào các Quỹ đầu tư trái phiếu. Hàng ngày, giá trị của các cổ phiếu trong danh mục đầu tư trái phiếu luôn biến động, phụ thuộc vào sự dao động của tỷ lệ lãi suất và các yếu tố khác. Do đó, giá trị tài sản toàn Quỹ đầu tư trái phiếu cũng thay đổi theo. Vì vậy, khi bạn bán cổ phiếu của Quỹ đầu tư trái phiếu, giá cổ phiếu sẽ có thể thấp hơn – hay cao hơn – so với thời điểm bạn mua chúng.

55. Thế nào là trái phiếu Zero-coupon. Trái phiếu Zero-coupon (cuống phiếu bằng không) sẽ không có lãi suất, thay vào đó, bạn mua trái phiếu với mức giá thấp hơn giá danh nghĩa. Khi cổ phiếu đến hạn, bạn sẽ nhận lại khoản tiền đó bao gồm khoản tiền đầu tư ban đầu cộng thêm số tiền chênh ra từ giá gốc cổ phiếu so với giá mua. Ví dụ, bạn có thể phải trả 6659 đồng và nhận 10 ngàn đồng trái phiếu zero-coupon có lợi tức 4,15% và hạn thanh toán trong 10 năm.

56. Cuống phiếu (Coupon). Đây là mức lãi suất cố định mà bạn có thể nhận được mỗi năm từ số cổ phiếu nắm giữ.

57. Giá trị trung bình (Par value). Mức giá này được hiểu như giá trị danh nghĩa của trái phiếu, đó là lượng tiền mà một nhà phát hành trái phiếu đồng ý trả khi đến hạn thanh toán. Thông thường, trái phiếu được giao dịch ở mức cao hơn hay thấp hơn giá trị trung bình.

Lịch sử thị trường chứng khoán


Thị trường chứng khoán không phải trên trời rơi xuống. Nhà kinh tế Thomas Sowell từng nói: “Thị trường cũng “người” như chính con người vậy.”

Thời bùng nổ cũng như suy thoái, thị trường chứng khoán luôn là tâm điểm chú ý. Báo chí nói chung cũng như các ấn bản về tài chính nói riêng tràn ngập tiêu đề về Dow Jones, S&P 500, NASDAQ, chứng khoán đi lên, chứng khoán đảo chiều, bán, mua, ...

Thị trường chứng khoán là sự phản ánh những lo ngại, sợ hãi và hy vọng của giới đầu tư.

Sở giao dịch đầu tiên

Thi trường chứng khoán không phải ngay từ đầu đã có những giao dịch toàn cầu phức tạp như hiện nay.

Cho đến năm 1531, định chế đầu tiên hao hao như một sở giao dịch mới ra đời tại Antwerp, Bỉ. Tuy vậy, ở thị trường chứng khoán đầu tiên này không hề có cổ phiếu.

Thay vì mua bán cổ phiếu công ty (những thứ khi ấy còn chưa tồn tại), người môi giới và cho vay tập trung lại đây để giao dịch các món nợ của công ty, chính phủ và thậm chí cả cá nhân.

Mọi chuyện thay đổi vào những năm 1600, khi cả Anh, Pháp và Hà Lan đều cử hạm đội đến Đông Ấn. Do ít nhà thám hiểm trang trải đủ cho một chuyến hải thương, các công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập để huy động tiền từ nhà đầu tư, những người này sẽ được chia lợi nhuận đoàn tương ứng với phần vốn góp.

Hình thức tổ chức kinh doanh này cũng đòi hỏi phải được quản lý rủi ro.

Theo báo Imperial Gazetteer của Ấn Độ, các chuyến hải hành đầu tiên của Anh đến Ấn Độ Dương không thành công, tàu đắm còn tài sản cá nhân của những người đi huy động vốn bị chủ nợ tịch thu.

Điều đó khiến một nhóm thương nhân London lập nên một công ty vào tháng 9/1599, giới hạn trách nhiệm của mỗi thành viên theo số tiền họ đầu tư. Nếu chuyến hải hành thất bại, luật pháp chỉ có thể tịch biên số tiền trên.

Nữ hoàng Anh cho phép nhóm thương nhân này hoạt động trong vòng 15 năm, và đặt tên cho công ty là “Thống đốc và nhóm thương nhân London giao thương với Đông Ấn” (hay đơn giản là “Công ty Đông Ấn”).

Hình thức trách nhiệm hữu hạn đã phát huy tác dụng tốt, cho đến năm 1609, vua James I đã cho phép nhiều công ty thương nghiệp nữa hoạt động và thúc đẩy giao tương tại các quốc gia Châu Âu có bờ biển khác.

Công ty Đông Ấn Hà Lan là công ty đầu tiên cho phép người ngoài mua cổ phiếu ghi danh theo một tỷ lệ nhất định. Họ cũng là công ty đầu tiên phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng qua Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam năm 1602.

Sở giao dịch chứng khoán London

Sự phát triển nhanh chóng của các công ty phát hành cổ phiếu dẫn tới sự ra đời của Sở giao dịch chứng khoán London.

Đầu tiên, cổ phiếu không được giao dịch tại một tòa nhà nào cả. Thay vào đó, cả bên môi giới lẫn nhà đầu tư gặp nhau ở các quán cà phê khắp London.

Khi ấy, nếu một công ty muốn bán cổ phiếu hay phát hành nợ, họ dán thông báo trên cửa các quán cà phê hay gửi thư tới nhà tài trợ. Đặc biệt, quán cà phê của Jonathan tại Change Alley nổi lên như một tụ điểm giao dịch chứng khoán chính tại London.

Giao dịch phi tập trung tiếp tục phát triển tại các quán cà phê London cho đến khi một đám cháy quét qua Change Alley năm 1748. Một nhóm giao dịch viên giàu có hiến một tòa nhà làm sở giao dịch năm 1773.

Từ đây mở ra một thời gian dài nước Anh tở thành thủ đô tài chính của thế giới. Kể cả khi đã bị Mỹ vượt qua, London vẫn là một trong những trung tâm tài chính trọng yếu.

Người ta cho rằng Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam mới là nơi đầu tiên cho phép giao dịch liên tục, bán khống, giao dịch quyền chọn, hoán đổi nợ-cổ phiếu, ngân hàng bán buôn, quỹ tín thác, … như chúng ta biết đến hiện nay.

Bất chấp những cải tiến ấy, Sở giao dịch chứng khoán Amsterdam không bao giờ có được ảnh hưởng trên thế giới tài chính như London hay New York.

Sở giao dịch chứng khoán New York


Năm 1793, Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch New York mở cửa tại Phố Wall. Dù không phải là sở giao dịch đầu tiên tại Mỹ, NYSE nhanh chóng trở thành trung tâm tài chính của đất nước non trẻ.

Cũng như tại London, NYSE ban đầu không rộng và nhiều hoạt động phải được tiến hành ở bên ngoài. Địa điểm này bị lửa thiêu rụi nên phải chuyển tới phố Broad và đổi tiên thành Sở giao dịch chứng khoán New York.

NYSE không mất nhiều thời gian để trở thành một trung tâm trong giới tài chính. Khối lượng giao dịch chứng khoán tăng 6 lần trong giai đoạn 1896-1901.

Sự thành công này phần lớn là nhờ địa điểm của sở giao dịch tại thành phố New York, trung tâm của gần như mọi giao dịch và buôn bán của nước Mỹ tại thời điểm đó.

NYSE cũng là sở giao dịch đầu tiên có điều kiện niêm yết và phí, giúp đem lại khoản thu nhập lớn cho sở giao dịch. Trong hơn 200 năm, Sở giao dịch chứng khoán New York luôn giữ vị trí số một.
Giao dịch điện tử

Giao dịch chứng khoán từng được tiến hành thủ công, sử dụng nhiều nhà phân tích theo dõi hoạt động giao dịch và báo cáo giá cổ phiếu cho công chúng. Tuy vậy, đến cuối thế kỷ 20, mọi chuyện thay đổi.

NASDAQ vào năm 1971 là sở giao dịch hoàn toàn điện tử đầu tiên trên thế giới. Thay vì để người bán và người mua nhờ người môi giới xác định giá cổ phiếu, NASDAQ dựng một tấm bảng điện tử lớn niêm yết giá và sự biến động theo thời gian thực.

Kể từ đó, NASDAQ đã phát triển và đưa ra các hệ thống giao dịch tự động cho phép nhà đầu tư tự động mua bán cổ phiếu của mình dựa trên các tiêu chuẩn định trước.

NASDAQ cũng cho ra đời Hệ thống đặt lệnh quy mô nhỏ (SOES), cho phép nhà đầu tư cá nhân đặt lệnh từ 1000 cổ phiếu trở xuống một cách tự động. SOES đã giải quyết vấn đề nhức nhối khi đó, giao dịch nhỏ lẻ thường bị các nhà tạo lập thị trường bỏ qua khi họ đặt lệnh qua điện thoại.

Các chức năng tự động của thị trường hiện nay phần lớn đều bắt nguồn từ phát minh của NASDAQ.

Sự đổ vỡ …

Đương nhiên, dù thị trường chứng khoán tồn tại để giúp đầu tư và kinh doanh thuận tiện hơn, nhưng không phải lúc nào mọi chuyện cũng đúng như kế hoạch. Mọi thị trường chứng khoán đều có nguy cơ phải chịu các vụ đổ vỡ.

Một ví dụ đáng chú ý là Vụ đổ vỡ Phố Wall năm 1929, mở đầu cho thời kỳ Đại suy thoái. Nó bắt đầu ngày 24/10/1929 (giờ được biết đến với cái tên “Ngày thứ năm đen tối”), khi chỉ số Dow Jones Industrial mất 50% giá trị chỉ trong một ngày.

Giá cổ phiếu tiếp tục hạ suốt một tháng sau đó, một đợt sụt giảm chưa từng có làm chấn động thế giới. Nhiều người tin rằng Đại suy thoái chấm dứt chủ yếu nhờ Chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ số việc làm tăng và nhu cầu vũ khí đạn dược.

Một vụ đổ vỡ nữa xảy đến với thị trường toàn cầu vào năm 1973-74. Chỉ số FT30 của Sở giao dịch chứng khoán London (khi ấy tương đương với chỉ số Dow Jones) mất 73% giá trị, khiến đồng đô la Mỹ mất giá và làm cuộc khủng hoảng dầu lửa 1973 thêm tồi tệ.

Không phải vụ đổ vỡ toàn cầu nào cũng bắt đầu ở Mỹ hoặc Anh, ví dụ như “Ngày thứ hai đen tối” năm 1987.

Hong Kong (một trung tâm tài chính lớn khác) là lãnh thổ đầu tiên bị tấn công vào ngày 19/10/1987 và vụ sụp đổ này lan sang phương Tây tới Mỹ, làm chỉ số Dow Jones rơi 22%. 
Như nhiều vụ sụp đổ khác, tin tức đã có một vụ sụp đổ diễn ra ở đâu đó thường là đủ để mọi người ở các nơi khác hoảng sợ, làm họ bán tống bán tháo cổ phiếu và lại làm vụ đổ vỡ thêm trầm trọng hơn.
… và thời bùng nổ

Thị trường chứng khoán đi theo một chu kỳ “bùng nổ và suy thoái” điển hình, với những thời kỳ tăng trưởng phi thường rồi đến những vụ đổ vỡ như đã được nói đến ở trên.

Một ví dụ cho hiện tượng này thường được biết đến với cái tên “Thập kỷ 20 ồn ã”. Trước Ngày thứ năm đen tối, thập kỷ 20 là thời kỳ của thịnh vượng và tăng trưởng phi thường.

Lính tráng trở về nhà với túi tiền rủng rỉnh sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Việc kinh doanh mở rộng trên quy mô lớn khiến giá cổ phiếu Mỹ tăng mạnh, đầu tư lớn của Mỹ ở Châu Âu thời hậu chiến cũng giúp kinh tế Anh, Pháp và Đức phát triển.

Không may, nhiều nhà kinh tế hiện nay tin rằng tín dụng tràn ngập trong thập kỷ 20 là lý do chính gây ra Đại khủng hoảng.

Một câu chuyện “bùng nổ và suy thoái” tương tự là bong bóng công nghệ cuối những năm 90. Nhờ sự bùng nổ của nền kinh tế Internet, chỉ số công nghệ NASDAQ tăng gấp đôi chỉ sau một năm, lên 5.058,62 điểm.

Sự tăng trưởng này phần nhiều là do ảo tưởng, dựa trên đầu cơ và hy vọng thay vì lợi nhuận thực. Các công ty thấy giá cổ phiếu của mình tăng mạnh chỉ bằng cách đơn giản thêm chữ “e” vào đầu hoặc “.com” vào cuối tên công ty.

Ý nghĩ đơn giản cho rằng công ty nào cũng có phần trong nền kinh tế Internet mới mẻ khiến giá cổ phiếu của chúng lên cao chạm trời. Rút cục bong bóng công nghệ cũng vỡ vào đầu những năm 2000.
Thị trường không hề trừu tượng hay độc lập. Trong nhiều trường hợp, chúng chỉ là sự tương tác vô thức giữa con người với nhau và có thể biến động bất kỳ lúc nào vì những ý thích, lo ngại hay hy vọng của chính con người.

Tầm quan trọng của kế hoạch lãi lỗ


Ai là người cần một kế hoạch lãi/lỗ? Có phải việc đầu tư chỉ là mua gốc bán ngọn không? Nếu như lúc nào cũng mua gốc bán ngọn thì thật là tuyệt, nhưng chắc chắn rằng điều này gần như là không thể. Hơn nữa, các nhà đầu tư cũng chỉ là con người: cảm xúc thường làm dao động sự phán đoán và bản chất chúng ta luôn ghét sự thất bại.

Thất bại trong giao dịch chứng khoán thành ra không chỉ làm thiệt hại cho ví tiền mà còn làm tổn thương cái tôi của chính chúng ta. Thường thì các nhà đầu tư kiếm lời bằng cách bán các cổ phiếu tăng giá, giữ lại những cổ phiếu xuống giá với hy vọng chúng sẽ tăng giá trở lại, và như vậy, những cổ phiếu này co lại còn một phần so với giá trị trước đó. Vậy làm thế nào các nhà đầu tư có thể tránh được những hậu quả đó? Một giải pháp được đưa ra là phải học để trở thành một nhà đầu tư có kỷ luật và phải thông qua một kế hoạch lãi/lỗ.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đi sâu vào chiến lược và sẽ chỉ cho bạn thấy sử dụng một kế hoạch lãi/lỗ như thế nào để có được số dư.

Một kế hoạch lãi/lỗ là gì?

Kế hoạch này là một bước mà rất nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ (và các nhà đầu tư chuyên nghiệp) thường coi nhẹ. Kế hoạch lãi/lỗ là tập hợp những giới hạn nhằm xác định mức độ thua lỗ lớn nhất hoặc lợi nhuận mà nhà đầu tư kiếm được trên một cổ phiếu. Một phần rất quan trọng trong việc đầu tư là phải tính đến những thua lỗ trong kế hoạch đầu tư của mình, bởi vậy kế hoạch lãi/lỗ sẽ là cốt lõi cho một chiến lược chính xác.

Tất cả chúng ta đều mắc phải sai lầm khi lựa chọn cổ phiếu và phần lớn đều bị mất tiền trên thị trường chứng khoán. Cái tạo nên những nhà đầu tư vĩ đại đó chính là khả năng nhận biết những lựa chọn sai lầm của họ và sử dụng chúng làm bài học cho những quyết định đầu tư sau này. Một kế hoạch lãi/lỗ giúp bạn nhận ra những sai lầm bằng cách cho phép bạn tách biệt vấn đề tình cảm với đầu tư. Nếu bạn không quá sốt sắng tới lợi nhuận mà chỉ xem chúng hoàn toàn như một phương tiện thúc đẩy sự lưu thông tiền mặt (trên hết cả là bản ngã của bạn) thì bạn sẽ có nhiều thời gian dễ dàng hơn để xem những cổ phiếu thua lỗ và hơn nữa là kiểm soát được chúng.

Đặt kế hoạch cho mình

Đặt ra một kế hoạch có thể khó hơn rất nhiều những gì bạn nghĩ. Trước tiên, bạn sẽ phải xác định mức lợi nhuận tối đa mà bạn sẽ chấp nhận và mức thua lỗ tối đa mà bạn cho phép đầu tư, nhưng các giới hạn tối đa và tối thiểu đó không nhất thiết phải áp dụng cho tất cả các loại cổ phiếu. Ví dụ: khi so sánh một cổ phiếu có tính thanh khoản cao (blue chip stock) với một cổ phiếu có giá trị thấp đang tăng trưởng (small-cap growth stock) thì khả năng tăng hay giảm 10% giá cổ phiếu có tính thanh khoản cao trong một năm ít hơn rất nhiều so với cổ phiếu có giá trị thấp. Nói một cách khác, bạn phải phân tích riêng từng cổ phiếu để ước tính nó có thể biến động đến mức nào.

Một số nhà đầu tư thường sử dụng phương pháp phân tích kỹ thuật (technical analysis) hoặc phân tích cơ bản (fundamental analysis) hoặc kết hợp cả hai để xác định những giới hạn thích hợp cho lợi nhuận và thua lỗ. Một cách khác để bạn đặt ra những giới hạn cho mình là mô hình hóa kế hoạch của bạn dựa trên việc thực hiện các mốc chuẩn đã đặt ra như chỉ số hoặc thậm chí dựa trên thành quả trước đây trong danh mục đầu tư của mình.

Một yếu tố khác mà bạn phải tính đến khi đặt kế hoạch lãi/lỗ là mức độ rủi ro cho phép dựa trên các yếu tố như cá tính của bạn, khung thời gian và nguồn vốn của mình. Điển hình là những người quan tâm tới rủi ro thường có những giới hạn chặt chẽ hơn những người không bận tâm tới rủi ro. Những người thích rủi ro thường sẽ kiếm nhiều lợi nhuận tới mức có thể từ việc cổ phiếu tăng giá, nhưng những nhà đầu tư bảo thủ hơn có thể bán cổ phiếu sớm hơn thời điểm tăng giá để loại trừ rủi ro thua lỗ, điều có thể xảy ra khi cổ phiếu rớt giá nhanh chóng. Nếu bạn muốn tránh xa rủi ro, thì một kế hoạch lãi/lỗ với 10% có thể là không phù hợp hoặc thậm chí là không thực tế đối với bạn. Mặt khác, nếu bạn sẵn sàng chấp nhận thêm rủi ro cùng với lợi nhuận tiềm năng thì 10% của kế hoạch lãi/lỗ có thể là thích hợp với bạn hơn.

Triển khai kế hoạch lãi/lỗ của mình

Ngay khi bạn quyết định con số lãi/lỗ, dù bạn là người bảo thủ hay là người năng động thì bạn cũng đưa kế hoạch đó vào hành động với càng ít cản trở càng tốt. Hãy nhớ rằng, kế hoạch này có hai yêu cầu: bạn phải bán cổ phiếu (1) nếu nó giảm xuống tới mức độ nào đó và (2) nếu nó tăng tới một mức nhất định.

Ngày nay, các nhà môi giới chứng khoán sẽ không để cho bạn đặt hai lệnh bán khác nhau cho cùng một loại cổ phiếu, vì vậy bạn phải xác định cổ phiếu nào bạn ưu tiên bán ra trước. Khôn hơn hết là bạn nên đặt lệnh cho các cổ phiếu để ngăn chặn trước khả năng sụt giá: rất nhiều nhà đầu tư khôn ngoan sử dụng lệnh cắt lỗ nhằm hướng dẫn nhà môi giới chứng khoán bán hay mua một cổ phiếu ngay khi nó đạt tới mức giá nhất định. Việc cắt lỗ đảm bảo rằng bạn sẽ không bị nhấn chìm trong thị trường xuống giá, đặc biệt là không phải lúc nào bạn cũng theo dõi được tất cả các phiên giao dịch. Khi bạn đặt lệnh với nhà môi giới chứng khoán của mình, hãy đưa ra mức giá mà bạn cho rằng tỷ lệ phần trăm thua lỗ là tối đa và sau đó hãy ngồi và chờ kết quả. Nếu giá khớp lệnh ở trần trên so với dự kiến của bạn thì bạn chỉ cần thay đổi giá cho lệnh cắt lỗ và bán ngay cổ phiếu của mình.

Giữ đúng kỷ luật


Khi đã có bản chiến lược lãi/lỗ trong tay thì bạn phải nhớ rằng toàn bộ ý tưởng của kế hoạch là để thiết lập những phương châm chỉ đạo nghiêm ngặt nhằm quyết định khi nào cần bán cổ phiếu. Chắc chắn rằng, bạn sẽ cảm thấy đau lòng khi thấy cổ phiếu vẫn tiếp tục tăng giá khi bạn bán ra, nhưng thường thì bán một cổ phiếu đang lên giá tốt hơn là đợi cho đến lúc phải bán hạ giá khi giá của nó đang sụp xuống sau khi đã đạt tới giá đỉnh điểm. Chính Joseph P. Kennedy đã từng nói “chỉ có một thằng ngốc mới giữ lại cổ phiếu ở mức giá cao nhất”.

Kết luận

Hãy nhớ rằng những con số ví dụ của chúng tôi là sự suy rộng. Và để đặt một kế hoạch bạn cần phải có sự nghiên cứu tỉ mỉ, phân tích, tự đánh giá và có cái nhìn thực tế. Còn việc đặt một giới hạn lợi nhuận ở mức 100% (gấp đôi số vốn của bạn) không có ý nghĩa gì nếu bạn đầu tư vào các công ty có mức độ rủi ro thấp với tốc độ tăng trưởng đều mỗi năm là 15%.

Dưới đây là một vài điểm đáng nhớ:

- Một cổ phiếu giảm 50% có nghĩa là bạn sẽ cần gấp đôi số tiền để lấy lại vốn. Kiểm soát thua lỗ là chìa khóa cho chiến lược đầu tư hiệu quả.

- Mắc phải sai lầm là bản chất của con người. Một khi bạn nhận ra điều này, bạn sẽ thấy dễ dàng hơn.

- Mua cổ phiếu và giữ nó trong một thời gian dài không có nghĩa là bạn sẽ kiếm được tiền. Một chiến lược mua và giữ sẽ chỉ hiệu quả khi bạn chọn được những công ty phù hợp.

Và điểm quan trọng nhất trong việc đặt ra kế hoạch lãi/lỗ là hãy bám sát vào nó!
--Sưu tầm--

Người Do Thái


Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế
Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại.
Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên ....
Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu cực kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:
Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại:
- Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
- Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu;
- Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển;
- 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008) … là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng...
Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người :
- Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy.
- Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ năm 2007, với tài sản cá nhân lên tới 26,5 tỷ USD.
- George Soros giàu thứ 28 ở Mỹ (7 tỷ USD) nổi tiếng thế giới hiện nay về ý tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn.
- Michael Bloomberg có tài sản riêng 5,1 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế, đang được mong đợi sẽ là ứng cử viên Tổng thống Mỹ khóa tới...
Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của nước này.
Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.
Nước Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm 2003 bằng 19.000 USD. Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu người A Rập xung quanh ...
Nguyên nhân do đâu?
Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.
Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm qua.
Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.
Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) – kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.
Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người.
Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi.
Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.
Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm.
Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.” Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá nhân trên một hình thức cao hơn”.
Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.
Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.
Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có.
Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật.
Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David ... đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.
Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái.
Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn.
Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào.
Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành ngân hàng?).
Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án.
Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.” Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái.
Người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.

10/9/12

10 bí quyết vượt qua khủng hoảng


Khi kinh tế khó khăn, một trong những nơi bạn có thể tìm kiếm lời khuyên khôn ngoan nhất đó là những người từng trải qua thời khủng hoảng - chẳng hạn như ông bà của bạn. Và đây là 10 ý tưởng bạn có thể thu được từ họ, đăng trên thestreet.
1. Tiết kiệm không phải là từ xấu
Nhiều người thường đánh đồng sự tiết kiệm với "rẻ tiền", nhưng điều đó không phải là sự thật. Tiết kiệm đơn giản là sử dụng tối đa những gì bạn có và mua, không mua những thứ bạn không thực sự cần đến.
Trong khi ông bà cha mẹ bạn học được cách tiết kiệm trong thời kỳ khó khăn, nhiều người vẫn tiếp tục làm điều đó kể cả khi kinh tế đã khá lên, và điều đó giúp họ giàu có.
2. Sử dụng những gì bạn có
Trong một xã hội tiêu thụ, bất cứ vấn đề gì bạn gặp phải luôn có thể được giải quyết bằng tiền. Nếu có thứ gì hỏng, chỉ việc ra ngoài mua thứ mới. Nếu có thứ gì vỡ, ra ngoài mua thứ thay thế.
Nhưng thời của ông bà bạn, khi có thứ gì vỡ, việc đầu tiên họ làm là xem có thể sửa chữa được không. Nếu không thể sửa được, thì trước khi vứt vào sọt rác, họ cũng sẽ xem liệu nó có ích vào việc khác hay không. Không có lý do gì để ra ngoài và tốn tiền vào một thứ mới trong khi bạn có thể vẫn tìm cách sử dụng lại món đồ mà bạn đã có.
3. Tự mình xử lý nếu có trục trặc
Khi sửa chữa thứ gì đó, việc đầu tiên ông bà bạn làm là tự mình tìm hiểu vấn đề. Thay vì gọi cho thợ, trước tiên họ xem mình có thể làm được hay không.
Điều quan trọng bạn cần nhớ là hầu hết công việc sửa chữa không thực sự khó như bạn tưởng, và bạn có thể tự mình làm với một chút tìm tòi và kiên nhẫn.
4. Mọi vật đều có thể sử dụng cho nhiều mục đích
Mọi người có xu hướng mua một món đồ cụ thể và sử dụng nó cho mục đích duy nhất ấy. Điều mà ông bà bạn biết rõ là mọi thứ đều có thể tái sử dụng trong vòng đời của chúng. Chiếc áo sơ mi sờn cổ, không thể mặc ra ngoài có thể trở thành cái áo ngủ ban đêm, và trở thành giẻ lau khi nó bắt đầu thủng lỗ.
5. Nợ nần là điều nên tránh
Trong thời đại của thẻ tín dụng, khi tiêu tiền, điều mà bạn không có hiện nay là sự tư vấn rằng làm điều đó đúng hay sai, trong khi thời của ông bà bạn, mọi người đều tin chắc nợ nần là điều nên tránh. Nếu họ có tiền, họ sẽ đơn giản là vạch ra kế hoạch để thực hiện việc mình muốn. Mượn bạn bè hoặc người thân, tiết kiệm tiền hoặc tìm một thứ khác để dùng thay thế..
6. Tích cốc phòng cơ (để dành cho lúc khó khăn)
Mọi người đều biết rằng trước sau gì sẽ có những ngày mưa gió. Ông bà của bạn hiểu rõ điều này và đặc biệt để dành tiền cho những ngày mưa gió ấy. Còn giờ đây, bạn nên nghĩ rằng sẽ là chuyện bình thường khi để dành một quỹ khẩn cấp, khi tài chính không đi đúng hướng như bạn hình dung.
7. Đồ cũ cũng có thể tốt như đồ mới
Việc mua một chiếc ô tô cũ còn tốt mới qua sử dụng 2-3 năm đã trở thành lời khuyên tài chính cho những ai muốn sở hữu xe hơi. Ông bà của bạn hiểu rằng chuyện xảy ra với người chủ cũ không có nghĩa là đồ vật đó bị xem là vô giá trị. Họ cũng biết rằng điều này không chỉ đúng với xe hơi, mà còn mở rộng sang hầu hết lĩnh vực khác, khi mà thị trường đồ second-hand hết sức phong phú.
8. Thời trang không phải là mục tiêu chính
Khi mua bán, ông bà của bạn biết rằng không phải bề ngoài của thiết bị đó thế nào, mà là nó làm được gì mới quan trọng. Một chiếc Rolex trông sang đấy, nhưng nó không hiện giờ tốt hơn một chiếc đồng hồ thường mua tại cửa hàng gần nhà. Hãy học cách mua đồ vật vì chức năng của nó chứ không phải vì ngoại hình để tiết kiệm tiền.
9. Mặc cả
Khi phải mua một món đồ, ông bà của bạn không chạy tọt ra cửa hàng và khuân về ngay. Họ sẽ bỏ thời gian để mặc cả. Việc đó có nghĩa là tìm hiểu mặt bằng giá rồi đợi đến khi phù hợp, chứ không chỉ là rút thẻ tín dụng ra và mua, ngay cả khi trong thẻ không đủ tiền. Mặc cả mất thời gian, nhưng khi làm được, bạn sẽ có thành quả lớn.
10. Bánh ở nhà là ngon nhất
Trong một xã hội mà mọi thứ đều có thể mua bán thuận tiện, thật khó mà nhớ được lần cuối cùng bạn tổ chức bữa ăn ở nhà là khi nào. Điều mà ông bà bạn biết là không chỉ rẻ hơn, mà món ăn do mình nấu ở nhà cũng ngon hơn nhiều. Hãy nghĩ thế này, có bao giờ bạn định bán đĩa bánh của ông bà làm cho bất kỳ hiệu bánh tên tuổi nào?
Những cách tiêu tiền trên dường như quá đơn giản trong thời đại mà các công cụ kinh tế đầy rẫy như hiện nay, nhưng nguyên tắc sống dưới mức tiềm năng, tích cốc phòng cơ, đạt được bằng cấp và đầu tư vào tương lai vẫn là những châm ngôn có thể mang lại ích lợi cho rất nhiều người ngày nay.
--Sưu tầm--

Chỉ số PMI


Chỉ số PMI
Là một chỉ số tổng hợp được xây dựng để cho một đánh giá khái quát về hoạt động trong ngành sản xuất và đóng vai trò như một chỉ số hàng đầu cho toàn bộ nền kinh tế.
Chỉ số được hình thành từ các chỉ số phổ biến riêng đo lường sự thay đổi về sản lượng (25%), số đơn đặt hàng mới (30%), tốc độ giao hàng của nhà cung cấp (15%), hàng tồn kho (10%) và tình trạng việc làm (20%).
Các nhà điều tra sẽ đánh giá các tiêu chí dựa trên các câu hỏi đặt ra cho các nhà quản trị mua hàng. Các câu hỏi được thiết kế rất đơn giản chỉ yêu cầu người trả lời chọn một trong ba phương án: tốt hơn, không thay đổi, kém hơn. Kết quả của từng câu hỏi sẽ được tổng kết thành một subindex trong PMI theo công thức là tổng của số phần trăm trả lời tốt hơn cộng với 1/2 số phần trăm trả lời không đổi. Như vậy nếu chỉ số bằng 50 điểm thì hoạt động của doanh nghiệp liên quan đến câu hỏi đó không đổi so với tháng trước, trên 50 là tốt hơn còn dưới 50 là tệ đi. Một số subindex quan trọng là new orders, output, employment, inventories, input & output price. Các subindex sẽ được tính trung bình trọng số để tạo thành PMI toàn phần.
Kết quả chỉ số PMI dưới 50.0 cho thấy nền kinh tế sản xuất nhìn chung giảm sút; trên 50.0 có nghĩa nhìn chung là phát triển. Kết quả chỉ số 50.0 là không có sự thay đổi. Mức chênh lệch so với 50.0 càng lớn thì tốc độ thay đổi mà chỉ số báo hiệu sẽ càng lớn. 

Hình thức chỉ số như vậy gọi là diffusion index có ưu điểm tránh được sự mơ hồ cho người trả lời nhưng vẫn có tính định lượng rõ ràng. Thêm vào đó, cách thức xây dựng làm cho chỉ số PMI dao động xung quanh mức trung tính 50 điểm mà không cần bất kỳ sự hiệu chỉnh nào, rất phù hợp cho các mô hình kinh tế lượng.